Tóm tắt
Nghị quyết số 57-NQ/TW xác định, phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là đột phá quan trọng hàng đầu, động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới. Theo đó, cơ chế quản lý tài chính lĩnh vực này cần được nghiên cứu để đổi mới đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ hiện nay. Nghiên cứu này tập trung xác định điểm nghẽn phát sinh từ hồ sơ quản lý, đồng thời làm rõ trách nhiệm của các chủ thể liên quan, gồm Kho bạc Nhà nước, cơ quan quản lý kinh phí và đơn vị thực hiện nhiệm vụ, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý kinh phí nghiên cứu khoa học và công nghệ trong điều kiện chuyển đổi số quốc gia.
Từ khóa: Quản lý kinh phí, khoa học và công nghệ; Nghị quyết 57-NQ/TW, Luật Ngân sách nhà nước 2025, hiệu quả phân bổ và giải ngân
Summary
Resolution No. 57-NQ/TW identifies the development of science, technology, innovation, and national digital transformation as a top strategic breakthrough and a key driving force for rapidly advancing modern productive forces, improving production relations, reforming national governance, fostering socio-economic development, preventing the risk of lagging behind, and enabling the country to achieve breakthrough and sustainable growth in the new era. Accordingly, the financial management mechanism for this sector needs to be reformed to meet current development requirements. This study focuses on identifying bottlenecks arising from administrative and financial management procedures, while clarifying the responsibilities of relevant stakeholders, including the State Treasury, funding management agencies, and implementing units. Based on these findings, the article proposes solutions to improve the management of funding for scientific and technological research in the context of national digital transformation.
Keywords: financial management, science and technology, Resolution No. 57-NQ/TW, the 2025 State Budget Law, allocation and disbursement efficiency
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và xu thế phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Đảng ta xác định quan điểm “phát triển khoa học và công nghệ (KHCN) là quốc sách hàng đầu, giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) của đất nước”. Bài viết đề xuất định hướng cải cách quản lý kinh phí nghiên cứu khoa học theo hướng dựa trên kết quả và khoán chi đến sản phẩm cuối cùng; đồng thời nhấn mạnh các giải pháp: chuẩn hóa và công khai hồ sơ nội bộ, phân định rõ trách nhiệm và thẩm quyền giữa các chủ thể cũng như ban hành quy trình liên thông từ lập kế hoạch, phân bổ, thực hiện đến quyết toán. Những khuyến nghị này nhằm giảm chi phí tuân thủ, số hóa hồ sơ tài liệu, ứng dụng công nghệ vào quy trình quản lý kinh phí, rút ngắn thời gian giải ngân nhưng vẫn bảo đảm kỷ luật tài chính, qua đó góp phần hiện thực hóa định hướng cải cách theo Luật Ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2025.
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Trong những năm qua, đã có một số nghiên cứu về quản lý tài chính đối với nhiệm vụ KHCN được công bố như: nghiên cứu “Cơ chế tài chính đối với KHCN: từ thông lệ quốc tế đến thực tiễn Việt Nam” của tác giả Lê Xuân Trường đăng trên Tạp chí Tài chính điện tử năm 2014, đã đề cập nội dung đổi mới quản lý tài chính đối với KHCN. Tác giả đã phân tích, so sánh về nguồn tài chính, đối tượng sử dụng nguồn tài chính, cách phân bổ và kiểm soát tài chính của một số nước trên thế giới so với Việt Nam, qua đó chỉ ra những bất cập trong cơ chế quản lý tài chính đối với hoạt động KHCN ở Việt Nam. Bài viết “Đổi mới cơ chế quản lý chi tiêu NSNN cho KHCN” của tác giả Đinh Thị Nga đăng trên Tạp chí KH&CN Việt Nam năm 2013 đã phản ánh những bất cập trong lập kế hoạch ngân sách thực hiện các nhiệm vụ KH&CN như: chưa lập kế hoạch theo khung khổ chi tiêu trung hạn do đó chưa gắn kết với các chiến lược phát triển KT-XH dài hạn của Quốc gia; định mức chi tiêu chưa phù hợp với thực tiễn; đầu tư NSNN cho hoạt động KHCN còn thấp nên chưa thúc đẩy phát triển KHCN. Đề tài cấp Bộ “Nghiên cứu khảo sát: Cơ chế quản lý tài chính nhiệm vụ KHCN có nguồn từ NSNN”, của TS. Lê Thị Thanh Huyền năm 2018 đã đánh giá thực trạng cơ chế quản lý tài chính đối với nhiệm vụ KHCN có nguồn từ NSNN, qua đó chỉ ra những hạn chế, vướng mắc như: địa chỉ và lĩnh vực sử dụng nguồn vốn KHCN chưa thực sự tập trung cho nguồn nhân lực có khả năng nghiên cứu tạo sự bứt phá trong lĩnh vực nghiên cứu KHCN; cơ cấu chi chưa thực sự phù hợp; quá trình tổng hợp xây dựng dự toán cũng như phê duyệt dự toán theo Luật NSNN thường kéo dài; nhiều nội dung của nhiệm vụ KHCN không có định mức kinh tế kỹ thuật; quy định về phân cấp, phân quyền, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước cũng như tổ chức, cá nhân chủ trì trong quá trình thực hiện nhiệm vụ KHCN chưa rõ ràng. Đề tài “Hoàn thiện kiểm soát chi kinh phí nghiên cứu KHCN từ NSNN qua Kho bạc Nhà nước (KBNN)” do PGS.TS. Lê Hùng Sơn (2021) nghiên cứu về hoàn thiện kiểm soát chi kinh phí nghiên cứu KHCN từ NSNN qua KBNN cũng như hoàn thiện cơ chế chính sách liên quan đến quản lý kinh phí nghiên cứu KHCN từ NSNN.
Nhìn chung, những nội dung cơ bản về đổi mới cơ chế quản lý KHCN như: hệ thống KHCN, cơ chế tài chính, thị trường KHCN, phát triển nguồn nhân lực KHCN, kiểm soát chi kinh phí KHCN từ NSNN qua KBNN… đã được các nhà khoa học nghiên cứu phân tích ở nhiều góc độ khác nhau. Kết quả những nghiên cứu trên đã phần nào làm sáng tỏ các vấn đề về quản lý hoạt động KHCN, áp dụng vào nhu cầu thực tế. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể về quản lý kinh phí nghiên cứu KHCN từ NSNN với trách nhiệm của KBNN, cơ quan quản lý kinh phí và đơn vị chủ trì nhiệm vụ trong giai đoạn chuyển đổi số quốc gia và thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW (Bộ Chính trị, 2024). Do đó, nghiên cứu này tập trung xác định điểm nghẽn phát sinh từ hồ sơ quản lý, đồng thời làm rõ trách nhiệm của các chủ thể liên quan, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả công tác quản lý kinh phí nghiên cứu KHCN trong bối cảnh hiện nay.
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Nguồn lực cho khoa học và công nghệ
Đảng và Nhà nước ta luôn xác định KHCN cùng với giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển KT-XH. Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với hoạt động KHCN thể hiện qua việc đầu tư cho KHCN ngày càng được quan tâm, từ năm 2016 đến năm 2025 đều có xu hướng tăng.
Bảng 1: Chi khoa học và công nghệ trong tổng chi ngân sách nhà nước
Đơn vị tính: Triệu đồng
|
Tiêu chí
|
Tổng chi NSNN
(ĐT+TX)
|
Trong đó: Chi thường xuyên
|
| |
Tổng số
|
Trong đó: Chi KHCN
|
|
Năm
|
Giá trị
|
Tỷ trọng (%)
|
|
1
|
2
|
3
|
4
|
5 = 4/2
|
|
2016
|
1.431.399.562
|
792.125.000
|
12.093.244
|
0,8
|
|
2017
|
1.357.303.696
|
846.156.000
|
13.973.984
|
1,0
|
|
2018
|
1.432.196.156
|
917.541.000
|
15.044.458
|
1,1
|
|
2019
|
1.542.393.952
|
984.194.000
|
15.445.940
|
1,0
|
|
2020
|
1.748.543.144
|
961.529.000
|
16.059.194
|
0,9
|
|
2021
|
1.478.683.759
|
1.023.401.000
|
24.753.198
|
1,7
|
|
2022
|
1.503.836.682
|
1.000.451.659
|
13.575.049
|
0,9
|
|
2023
|
1.753.588.800
|
1.067.339.000
|
13.556.697
|
0,8
|
|
2024
|
1.882.813.000
|
1.263.810.000
|
12.274.502
|
0,7
|
|
7 tháng đầu năm 2025
|
1.121.734.300
|
800.772.000
|
8.488.486
|
0,8
|
Nguồn: Báo cáo hàng năm của Kho bạc Nhà nước
Qua Bảng 1 cho thấy, trong những năm vừa qua tỷ trọng chi cho KHCN trên tổng số chi NSNN vẫn được đảm bảo và có xu hướng tăng dần qua các năm về giá trị (năm 2021 có lũy kế thanh toán cao nhất là 24.753.198 triệu đồng). Tuy nhiên, chi KHCN so với tổng chi NSNN vẫn chiếm tỷ trọng thấp, trung bình qua các năm đạt mức 1%.
Một số yếu tố liên quan đến quản lý kinh phí đề tài khoa học công nghệ
Về quy trình thanh toán kinh phí khoa học công nghệ
Hiện nay, thủ tục thanh toán kinh phí KHCN thực hiện theo quy định tại Nghị định 88/2025/NĐ-CP (Chính phủ, 2025), cụ thể:
Đối với kinh phí thực hiện nhiệm vụ KHCN được cấp thông qua các Quỹ Phát triển KHCN: Hồ sơ gửi KBNN để thanh toán tiền cho tổ chức chủ trì nhiệm vụ, đơn vị sử dụng ngân sách chỉ cần gửi chứng từ chuyển tiền.
Đối với kinh phí thực hiện nhiệm vụ KHCN không được cấp thông qua các Quỹ Phát triển KHCN, hồ sơ gửi KBNN theo quy định tại Nghị định 11/2020/NĐ-CP (Chính phủ, 2020) bao gồm 3 thành phần hồ sơ: (1) Văn bản phê duyệt nhiệm vụ của cấp có thẩm quyền; (2) Hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; (3) Bảng xác định giá trị khối lượng công việc đã hoàn thành.
Đối với kinh phí chi đầu tư để triển khai các nền tảng số, hệ thống thông tin quy mô quốc gia, quy mô vùng, hồ sơ thanh toán gửi KBNN bao gồm 3 thành phần hồ sơ: (1) Quyết định phê duyệt dự án đầu tư đối với thực hiện dự án hoặc văn bản giao nhiệm vụ chuẩn bị đầu tư của cấp có thẩm quyền đối với nhiệm vụ chuẩn bị đầu tư; (2) Kế hoạch đầu tư công hàng năm; (3) Giấy đề nghị giải ngân vốn, Giấy rút vốn.
Đối với thanh toán kinh phí hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp triển khai nhanh hạ tầng 5G hồ sơ gửi KBNN gồm 3 thành phần hồ sơ: (1) Dự toán ngân sách được cấp có thẩm quyền phê duyệt; (3) Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; (3) Chứng từ chuyển tiền.
Đối với thanh toán kinh phí hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp đầu tư xây dựng nhà máy đầu tiên chế tạo chíp bán dẫn quy mô nhỏ, công nghệ cao được lựa chọn hỗ trợ, hồ sơ gửi KBNN gồm 4 thành phần hồ sơ: (1) Chứng từ chuyển tiền; (2) Dự toán ngân sách được cấp có thẩm quyền phê duyệt; (3) Văn bản của Bộ KHCN đề nghị thanh toán kinh phí hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp; (4) Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về mức hỗ trợ tài chính cụ thể cho doanh nghiệp Việt Nam nhận hỗ trợ.
Có thể thấy rằng, các thủ tục thanh toán qua KBNN quy định tại Nghị định 88/2025/NĐ-CP đã được đơn giản hóa, thời gian thanh toán kinh phí KHCN được rút ngắn từ 3 ngày làm việc xuống còn 1 ngày làm việc, tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan, tổ chức KHCN chủ động hơn trong việc triển khai các chương trình, dự án. Bên cạnh đó, về phương thức gửi hồ sơ thanh toán đến KBNN được thực hiện qua Dịch vụ công trực tuyến đã đảm bảo công khai, minh bạch, kiểm soát được thời gian giao nhận, xử lý hồ sơ của cán bộ KBNN.
Về quy trình xây dựng và phê duyệt kinh phí đề tài khoa học công nghệ
Theo Nghị định 08/2014/NĐ-CP (Chính phủ, 2014), các đơn vị sử dụng ngân sách ban hành Quy chế quản lý nhiệm vụ KHCN. Quy trình xây dựng và phê duyệt kinh phí đề tài KHCN gồm: Đăng ký nhiệm vụ KHCN, thẩm định hồ sơ đăng ký và thẩm định kinh phí thực hiện nhiệm vụ KHCN, xây dựng dự toán trình cấp có thẩm quyền xem xét, phê duyệt nhiệm vụ KHCN, triển khai nhiệm vụ KHCN (ký hợp đồng, tổ chức khảo sát, điều tra, tổ chức hội thảo…), tổ chức thẩm định trước khi thành lập Hội đồng nghiệm thu, tổ chức nghiệm thu, đánh giá kết quả nhiệm vụ KHCN, tạm ứng, thanh toán, quyết toán, kiểm toán đề tài. Như vậy, để hoàn thành một đề tài KHCN phải qua nhiều bước như: đăng ký dự toán, thẩm duyệt mới được phê duyệt nhiệm vụ và thanh toán nhiệm vụ. Có thể thấy khâu thanh toán chỉ là một bước nhỏ trong một quy trình thực hiện như đã nêu ở trên.
Về hồ sơ thanh toán giữa tổ chức chủ trì nhiệm vụ và đơn vị quản lý kinh phí
Điều 3 Thông tư số 03/2023/TT-BTC (Bộ Tài chính, 2023) quy định: “Tiền thù lao tham gia nhiệm vụ KHCN gồm: tiền thù lao cho các thành viên tham gia thực hiện nhiệm vụ KHCN; tiền công lao động phổ thông hỗ trợ các công việc trong nội dung nghiên cứu; tiền thuê chuyên gia trong nước và chuyên gia ngoài nước phối hợp trong quá trình nghiên cứu và thực hiện nhiệm vụ KHCN. Chi mua nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, mẫu vật, dụng cụ, phụ tùng, vật rẻ tiền mau hỏng, năng lượng, tài liệu, số liệu, sách, báo, tạp chí tham khảo, quyền sở hữu và sử dụng đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ phục vụ hoạt động nghiên cứu. Chi sửa chữa, mua sắm, thuê tài sản (hoặc cơ sở vật chất, trang thiết bị) phục vụ trực tiếp cho hoạt động NCKH của nhiệm vụ KHCN. Chi hội nghị, hội thảo khoa học, diễn đàn, tọa đàm khoa học, công tác phí trong nước, hợp tác quốc tế (đoàn ra, đoàn vào) phục vụ hoạt động nghiên cứu….”
Theo quy định tại tiết b khoản 1, tiết c khoản 2 Điều 12 Thông tư liên tịch số 27/2015/TTLT-BKHCN-BTC (Bộ KHCN và Bộ Tài chính, 2015), đơn vị quản lý kinh phí có trách nhiệm kiểm soát chi kinh phí thực hiện nhiệm vụ và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính hợp pháp, hợp lệ, hồ sơ, chứng từ chi của tổ chức chủ trì nhiệm vụ. Điều 14, Điều 15 Thông tư liên tịch số 27/2015/TTLT-BKHCN-BTC quy định: căn cứ để xét duyệt quyết toán nhiệm vụ theo phương thức khoán chi đến sản phẩm cuối cùng gồm: (1) Quyết định phê duyệt nhiệm vụ; (2) Hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; (3) Biên bản họp Hội đồng đánh giá nghiệm thu nhiệm vụ; (4) Biên bản thanh lý hợp đồng. Căn cứ để xét duyệt quyết toán nhiệm vụ thực hiện theo phương thức khoán chi từng phần gồm: (1) Quyết định phê duyệt nhiệm vụ; (2) Hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; (3) Biên bản họp Hội đồng đánh giá nghiệm thu nhiệm vụ; (4) Biên bản thanh lý hợp đồng; (5) Hồ sơ, chứng từ chi đối với phần kinh phí không được khoán.
Căn cứ các quy định nêu trên, cơ quan quản lý kinh phí có trách nhiệm kiểm soát chi kinh phí thực hiện nhiệm vụ và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính hợp pháp, hợp lệ, hồ sơ, chứng từ chi của tổ chức chủ trì nhiệm vụ. Vì vậy, để đảm bảo mục tiêu quản lý kinh phí theo tiêu chuẩn, định mức được cấp có thẩm quyền quy định đối với từng khoản chi cấu thành dự toán NSNN thực hiện nhiệm vụ KHCN và tùy vào hình thức khoán (khoán chi từng phần hay khoán chi đến sản phẩm cuối cùng), chủ nhiệm đề tài phải bổ sung các hồ sơ khác gửi cơ quan quản lý kinh phí và lưu giữ tại đơn vị theo quy định tại Điều 14, Điều 15 Thông tư liên tịch số 27/2015/TTLT-BKHCN-BTC.
Trên cơ sở rà soát khuôn khổ pháp lý hiện hành, kết quả cho thấy thủ tục thanh toán qua KBNN đã có bước cải thiện theo hướng tinh gọn và số hóa. Tuy nhiên, gánh nặng chứng từ vẫn tập trung chủ yếu ở khâu nội bộ A-B (Cơ quan quản lý kinh phí và Đơn vị chủ trì thực hiện nhiệm vụ), đặc biệt với nhiệm vụ khoán chi từng phần. Từ những phân tích trên, có thể thấy, để thực hiện thanh toán cho nhiệm vụ KHCN, đơn vị quản lý kinh phí và tổ chức chủ trì nhiệm vụ phải thực hiện nhiều thủ tục hơn so với hồ sơ chứng từ phải gửi qua KBNN kiểm soát. Bên cạnh quy định nêu trên còn có quy định riêng trong nội bộ A-B.
Kinh phí NCKH được kiểm soát qua hệ thống KBNN chủ yếu giải ngân qua KBNN Hà Nội và KBNN TP. Hồ Chí Minh với quy trình kiểm soát công khai, minh bạch và đội ngũ cán bộ kiểm soát chi tinh thông nghiệm vụ.
Có thể tham khảo số liệu kiểm soát chi kinh phí nghiên cứu KHCN ở Bảng 2 và Bảng 3.
Bảng 2: Kiểm soát chi khoa học và công nghệ qua một số Kho bạc Nhà nước
|
KSC
|
Kiểm soát chi
trong toàn quốc
(Triệu đồng)
|
Trong đó KBNN kiểm soát chi
|
| |
KBNN Hà Nội
|
KBNN TP. HCM
|
|
Năm
|
Số chi
(Triệu đồng)
|
Tỷ trọng
(%)
|
Số chi
(Triệu đồng)
|
Tỷ trọng
(%)
|
|
2016
|
12.093.244
|
4.207.461
|
34,8
|
1.057.608
|
8,7
|
|
2017
|
13.973.984
|
4.913.318
|
35,2
|
998.491
|
7,1
|
|
2018
|
15.044.458
|
6.513.539
|
43,3
|
1.268.019
|
8,4
|
|
2019
|
15.445.940
|
7.357.958
|
47,6
|
1.667.265
|
10,8
|
|
2020
|
16.059.194
|
7.832.848
|
48,8
|
2.570.069
|
16,0
|
|
2021
|
24.753.198
|
3.675.275
|
14,8
|
4.960.741
|
20,0
|
|
2022
|
13.575.049
|
8.049.132
|
59,3
|
3.199.038
|
23,6
|
|
2023
|
13.556.697
|
8.019.716
|
59,2
|
2.998.120
|
22,1
|
|
2024
|
12.274.502
|
7.188.432
|
58,6
|
2.640.984
|
21,5
|
|
7 tháng đầu năm 2025
|
8.488.486
|
4.881.061
|
57,5
|
1.969.650
|
23,2
|
Nguồn: Báo cáo hàng năm của Kho bạc Nhà nước
Theo số liệu của Bảng 2, trong giai đoạn 2016-2025, tỷ trọng chi KHCN thanh toán qua KBNN Hà Nội so với toàn quốc bình quân chiếm 45,9%; thanh toán qua KBNN TP.HCM bình quân chiếm 12,5%. Tỷ lệ chi KHCN tập trung tại các thành phố lớn, trong đó Hà Nội chiếm tỷ trọng lớn nhất, bởi lẽ các đơn vị nghiên cứu KHCN phần lớn đóng trụ sở tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, đều hưởng ngân sách Trung ương. Vì vậy, việc KBNN Hà Nội và KBNN TP.Hồ Chí Minh làm tốt công tác kiểm soát chi kinh phí nghiên cứu KHCN góp phần rất lớn vào hoàn thành nhiệm vụ của hệ thống KBNN trong việc thúc đẩy hoạt động KHCN phát triển.
Bảng 3: Kiểm soát chi khoa học và công nghệ theo cấp ngân sách
Đơn vị tính: Triệu đồng
|
Năm
|
Ngân sách TW
|
Ngân sách tỉnh
|
Ngân sách huyện
|
|
Dự toán
|
Chi
|
Dự toán
|
Chi
|
Dự toán
|
Chi
|
|
2016
|
11.343.094
|
8.915.670
|
5.214.899
|
3.069.551
|
146.028
|
108.023
|
|
2017
|
13.401.031
|
9.262.843
|
6.934.488
|
4.607.520
|
140.989
|
103.621
|
|
2018
|
12.285.460
|
10.506.452
|
7.916.584
|
4.510.170
|
121.348
|
27.837
|
|
2019
|
15.976.020
|
10.334.699
|
7.968.710
|
5.024.059
|
121.522
|
87.183
|
|
2020
|
16.482.888
|
10.966.136
|
8.353.634
|
5.000.036
|
131.001
|
93.022
|
|
2021
|
1.660.234
|
1.190.324
|
36.068.096
|
23.327.245
|
736.084
|
235.629
|
|
2022
|
18.019.686
|
9.714.579
|
7.525.857
|
3.744.656
|
76.019
|
115.814
|
|
2023
|
15.259.188
|
9.820.714
|
6.417.460
|
3.661.263
|
130.969
|
74.720
|
|
2024
|
13.994.086
|
8.980.436
|
6.081.176
|
3.261.125
|
61.426
|
32.941
|
|
7 tháng đầu năm 2025
|
13.842.844
|
6.118.137
|
6.735.720
|
2.299.239
|
208.321
|
71.110
|
Nguồn: Báo cáo hàng năm của Kho bạc Nhà nước
Từ số liệu Bảng 3 cho thấy, các Đơn vị chủ trì nghiên cứu KHCN chủ yếu là các đơn vị trung ương, đóng trụ sở tại Hà Nội và một phần tại TP. Hồ Chí Minh, vì vậy tỷ lệ chi KHCN tập trung nhiều nhất ở ngân sách Trung ương, với tỷ trọng năm 2016 là 68% và năm 2024 là 69% tổng kinh phí NSNN dành cho KHCN. Ở cấp huyện (trước đây) chủ yếu là các đơn vị thực hiện nhiệm vụ ứng dụng KHCN vào sản xuất và đời sống nên ngân sách cấp huyện dành cho KHCN chiếm tỷ lệ thấp trong tổng số NSNN dành cho KHCN (năm 2016 là 0,87%; năm 2024 là 0,31%.
Kết quả đạt được
Thứ nhất, KBNN đã kiểm soát chặt chẽ các khoản chi nghiên cứu KHCN của các đơn vị sử dụng ngân sách và hướng dẫn các đơn vị phải chấp hành đúng, đầy đủ các điều kiện chi theo Luật NSNN và các văn bản hướng dẫn hiện hành.
Thứ hai, quy định hiện hành đã làm rõ hơn trách nhiệm, quyền hạn của các đơn vị có liên quan trong quản lý chi nghiên cứu KHCN. Công tác lập, duyệt, phân bổ dự toán của nhiệm vụ KHCN trước đây còn chưa sát thực tế nhưng đã dần đi vào quy chuẩn, dự toán các khoản chi quản lý nhiệm vụ KHCN có chất lượng hơn làm cho tính chủ động và trách nhiệm của các tổ chức chủ trì trong công tác dự toán và quyết toán được nâng cao.
Thứ ba, qua kiểm soát chi tại KBNN, kinh phí NSNN được sử dụng đúng mục đích, đúng đối tượng, chấp hành đúng chế độ tiêu chuẩn, định mức chi và mẫu biểu hồ sơ chứng từ.
Thứ tư, từ bất cập trong kiểm soát chi nghiên cứu KHCN đã thúc đẩy quá trình cải cách thủ tục hành chính, nghiên cứu để hoàn thiện quy trình nghiệp vụ trong kiểm soát chi kinh phí KHCN nói riêng. Việc ban hành, thực hiện Nghị định số 11/2020/NĐ-CP và Thông tư số 62/2020/TT-BTC đã tăng cường cải cách thủ tục hành chính, quy trình nghiệp vụ theo hướng đơn giản hóa tối đa hồ sơ thủ tục; đồng thời, từng bước chuyển từ kiểm soát trước, thanh toán sau sang thanh toán trước, kiểm soát sau, từ đó rút ngắn được thời gian kiểm soát chi xuống còn 1 ngày làm việc. Thực hiện cơ chế “một cửa, một giao dịch viên”; hồ sơ kiểm soát chi được đơn vị gửi đến qua Trang thông tin Dịch vụ công trực tuyến của KBNN đã tạo điều kiện thuận lợi cho đơn vị trong quá trình giao dịch với KBNN.
Thứ năm, đội ngũ công chức làm công tác kiểm soát chi kinh phí KHCN được KBNN tổ chức đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên nên kỹ năng ngày một nâng cao. Thông qua các kỳ thi sát hạch nghiệp vụ, công chức kiểm soát chi được bố trí phù hợp với khả năng và trình độ của mình, đáp ứng được ngày càng tốt hơn đối với quy trình kiểm soát chi NSNN, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý chi tiêu NSNN của các đơn vị sử dụng ngân sách.
Thứ sáu, Thông tư liên tịch số 27/2015/TTLT-BKHCN-BTC đã đánh dấu một bước tiến mới trong việc trao quyền chủ động cho chủ nhiệm nhiệm vụ tổ chức việc sử dụng kinh phí thuộc nhiệm vụ KHCN, tạo điều kiện thông thoáng trong việc thực hiện các thủ tục thanh quyết toán kinh phí nghiên cứu KHCN qua KBNN. Chủ nhiệm nhiệm vụ chủ động xây dựng phương án triển khai các nội dung công việc được giao khoán, trong đó được quyền điều chỉnh mục chi, nội dung chi, định mức chi, kinh phí giữa các phần công việc được giao khoán, trình thủ trưởng tổ chức chủ trì phê duyệt trước khi triển khai nhằm thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ, phù hợp với các vấn đề phát sinh trong thực tế triển khai nhiệm vụ, cụ thể như: chuyển vào quỹ tiền lương, tiền công kinh phí tiền công lao động trực tiếp cho các cá nhân thực hiện nhiệm vụ; tổ chức chủ trì, chủ nhiệm nhiệm vụ tự quyết định việc mua sắm; KBNN kiểm soát, thanh toán các khoản chi nghiên cứu KHCN qua hợp đồng...
Thứ bảy, kinh phí tiết kiệm được từ giao khoán được hạch toán là nguồn thu khác của cơ quan chủ trì và thủ trưởng cơ quan chủ trì quyết định phương án sử dụng kinh phí tiết kiệm theo Quy chế chi tiêu nội bộ của tổ chức chủ trì. Kinh phí tiết kiệm được từ kinh phí không được giao khoán thực hiện sẽ được trích nộp các Quỹ Phát triển hoạt động sự nghiệp của cơ quan chủ trì, Quỹ phát triển KHCN của cơ quan phê duyệt nhiệm vụ để tiếp tục phát triển công tác nghiên cứu khoa học của các đơn vị. Như vậy, việc sử dụng kinh phí tiết kiệm tạo điều kiện cho các tổ chức KHCN phát huy những sáng tạo, đặc biệt đối với các doanh nghiệp có nhiều cơ hội tiếp cận nguồn kinh phí tài trợ từ các Quỹ.
Một số khó khăn, vướng mắc
Hiện nay, cơ chế quản lý tài chính cho hoạt động KHCN chưa phân định rõ trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương trong việc xác định nhiệm vụ KHCN và tổ chức thực hiện nhiệm vụ KHCN. Chưa xây dựng được các tiêu chí cụ thể đánh giá chất lượng và hiệu quả của hoạt động KHCN và các tổ chức KHCN. Đồng thời, chưa có quy hoạch xây dựng các tổ chức KHCN đáp ứng yêu cầu phát triển các ngành, lĩnh vực KHCN trọng điểm. Các tổ chức KHCN của Nhà nước còn chậm chuyển sang thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
Việc thực hiện cơ chế đấu thầu, đặt hàng, giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp KHCN sử dụng NSNN theo Nghị định số 32/2019/NĐ-CP ngày 10/4/2019 của Chính phủ chưa được triển khai nhiều, một số kinh phí không được giao khoán chưa được kiểm soát chi qua KBNN.
Theo quy định, nhiệm vụ KHCN được Hội đồng đánh giá nghiệm thu nhiệm vụ xếp loại từ mức “Đạt” trở lên đã đủ điều kiện thanh toán, nhưng công tác kiểm soát và thanh toán các khoản chi nghiên cứu KHCN chưa gắn với kết quả đầu ra.
Hệ thống các văn bản hướng dẫn về hoạt động nghiên cứu KHCN nói chung và kiểm soát chi nghiên cứu KHCN còn thiếu tính đồng bộ. Điều này xuất phát bởi công tác này chịu sự điều chỉnh đồng thời của 2 hệ thống văn bản: thứ nhất là các văn bản pháp quy quy định chung về kiểm soát chi NSNN; thứ hai là các văn bản quy định chi tiết đối với các nhiệm vụ KHCN và các nội dung chi quản lý nhiệm vụ KHCN. Dẫn đến, một số quy định trùng lắp, chồng chéo… tuy đã được nghiên cứu, bổ sung và sửa đổi nhiều lần song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý.
Đối với đề tài cấp Bộ còn nhiều hình thức quản lý, chưa thống nhất về Cơ quan quản lý kinh phí và Đơn vị chủ trì nên trong thực tế có khó khăn trong công tác kiểm soát chi.
Đối với một số mẫu biểu hồ sơ, chứng từ: Có một số mẫu biểu chứng từ các khoản chi nghiên cứu KHCN để làm cơ sở thực hiện kiểm soát chi, thực hiện xuất quỹ NSNN chuyển tiền từ tài khoản dự toán (hoặc tiền gửi dự toán) của cơ quan quản lý kinh phí về tài khoản tiền gửi khác của cơ quan, tổ chức chủ trì nhiệm vụ chưa được chuẩn hóa, thống nhất. Mẫu bảng kê khối lượng công việc hoàn thành sử dụng tại các văn phòng chương trình, các cơ quan quản lý kinh phí, các Quỹ KHCN là khác nhau, không đồng nhất, các chỉ tiêu phản ánh chưa rõ ràng cụ thể, có những mẫu theo dõi chi tiết số đã cấp, số đã tạm ứng, số đề nghị thanh toán nhưng có mẫu còn sơ sài chưa phản ánh hết các chỉ tiêu phục vụ cho công tác kiểm soát chi và quản lý đối với cơ quan quản lý kinh phí đề tài. Quy định hồ sơ tài liệu trong giai đoạn tạm ứng và thanh toán (chưa phải thanh toán lần cuối) không đáp ứng yêu cầu cải cách thủ tục hành chính, việc quy định các sản phẩm trung gian để minh chứng cho công việc đã thực hiện dẫn tới áp lực lớn cho các nhà khoa học và làm chậm tiến độ giải ngân kinh phí KHCN.
Việc thực hiện khoán chi đến sản phẩm cuối cùng còn chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Nhiều nhiệm vụ KHCN số dư chuyển nguồn lớn; nhiều đề tài được gia hạn, gia hạn nhiều lần, thực hiện trong rất nhiều năm ngân sách, dẫn đến tình trạng theo dõi quyết toán NSNN không được chính xác. Khoán chi từng phần chưa được phân bổ dự toán chi tiết theo mã nguồn ngân sách, chỉ thể hiện tại hợp đồng thực hiện nhiệm vụ KHCN và dự toán chi tiết của đề tài dẫn đến khó khăn cho công tác kiểm soát chi. Chưa phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn trong kiểm soát chi và quản lý kinh phí của các cơ quan liên quan. Chưa quy định rõ các loại hồ sơ, chứng từ và thủ tục mà Đơn vị chủ trì nhiệm vụ phải gửi cho cơ quan quản lý kinh phí.
GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ
Với việc Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 57-NQ/TW, trong thời gian gần đây, việc thực hiện nhiệm vụ KHCN đã nhận được sự quan tâm đặc biệt và bước đầu đã có kết quả khởi sắc. Song bên cạnh đó vẫn còn một số bất cập tiếp tục phải quan tâm tháo gỡ. Trên cơ sở những hạn chế vướng mắc và nguyên nhân như đã phân tích, tác giả đề xuất một số giải giáp sau:
Một là, cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý và văn bản hướng dẫn thi hành theo nguyên tắc đồng bộ, không đa nghĩa, dễ hiểu, dễ thực hiện; đồng thời đảm bảo tính hệ thống, toàn diện, khoa học, logic trong nội tại và đặc biệt là tính khả thi. Trong đó, Bộ KHCN, Bộ Tài chính nghiên cứu sửa đổi Thông tư liên tịch số 27/2015/TTLT-BKHCN-BTC theo hướng phân định rõ trách nhiệm giữa đơn vị quản lý kinh phí và đơn vị chủ trì nhiệm vụ; tăng tính tự chủ cho đơn vị chủ trì nhiệm vụ, như: đối với các nhiệm vụ KHCN thực hiện theo phương thức khoán chi từng phần theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Thông tư số 27/2015/TTLT- BKHCN-BTC thì giao chủ nhiệm nhiệm vụ chịu trách nhiệm thực hiện phần đã được giao khoán theo đúng quy định của pháp luật; việc thanh toán với đơn vị quản lý kinh phí chỉ căn cứ trên cơ sở nghiệm thu nhiệm vụ được giao, tổ chức chủ trì không phải gửi các hồ sơ tương ứng với từng khoản chi được giao khoán đến đơn vị quản lý kinh phí. Sửa đổi Thông tư liên tịch số 55/2015/TTLT/BTC-BKHCN và Thông tư liên tịch 27/2015/TTLT/BKHCN-BTC theo hướng đơn giản hóa và giảm thiểu các hồ sơ giấy tờ gửi đến KBNN; thống nhất quy định mẫu biểu trong thuyết minh đề tài có phụ lục tài chính, phụ lục chuyên môn.
Hai là, hoàn thiện, đảm bảo thống nhất về cơ chế quản lý các nhiệm vụ KHCN, trong đó có kinh phí nghiên cứu KHCN; quy định giao nhiệm vụ, đặt hàng hoặc đấu thầu cung cấp sản phẩm dịch vụ công sử dụng NSNN, trong đó có nghiên cứu KHCN từ nguồn kinh phí chi thường xuyên.
Ba là, hoàn thiện hệ thống định mức kinh tế - kỹ thuật, nhân công và tài chính cho phù hợp với tình hình thực tế trên cơ sở khách quan khoa học. Từng bước xây dựng tiêu chuẩn phân bổ ngân sách cho KHCN dựa trên kết quả đầu ra. Thực hiện phân bổ dự toán cho nhiệm vụ KHCN phù hợp với năng lực và tiến độ thực hiện nhiệm vụ. Cần có biện pháp hạn chế tình trạng gia hạn thời gian thực hiện đề tài.
Bốn là, các cấp có thẩm quyền cần nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung cơ chế chính sách có liên quan đến quy định quản lý kinh phí nghiên cứu KHCN đảm bảo đơn giản hóa hơn nữa các thủ tục hành chính. Đẩy mạnh áp dụng hình thức khoán chi đến sản phẩm cuối cùng để đảm bảo mục tiêu kiểm soát theo kết quả thực hiện nhiệm vụ theo quy định tại Luật NSNN. Đồng thời phải quy định rõ về hồ sơ thủ tục thật đơn giản đúng với hình thức khoán chi (lời ăn, lỗ chịu), không yêu cầu xuất trình hóa đơn, hợp đồng nội bộ, hợp đồng mua bán công cụ, dụng cụ, vật liệu, hóa chất… khi đã áp dụng hình thức khoán chi đến sản phẩm cuối cùng. Hoàn thiện chế độ thông tin báo cáo, công tác tài chính kế toán và trách nhiệm giải trình kết quả nghiên cứu của các đơn vị cung cấp dịch vụ về KHCN.
Năm là, cần chuẩn hóa các văn bản quy định hướng dẫn chế độ quản lý tài chính, xác định rõ cụ thể “Cơ quan quản lý kinh phí”.
Với những giải pháp nêu trên, tác giả mong muốn hoàn thiện công tác quản lý kinh phí và kiểm soát chi NSNN nói chung, trong đó có kiểm soát chi kinh phí nghiên cứu KHCN, từ đó đảm bảo quản lý chặt chẽ việc sử dụng kinh phí từ NSNN; đồng thời tạo thuận lợi, nâng cao hiệu quả công tác nghiên cứu KHCN, thực hiện hiệu quả những mục tiêu chiến lược đã được nêu tại Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị, góp phần đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Chính trị (2024). Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
2. Bộ KHCN và Bộ Tài chính (2025). Thông tư liên tịch số 27/2015/TTLT-BKHCN-BTC ngày 30/12/2015 quy định khoán chi thực hiện nhiệm vụ KHCN sử dụng NSNN.
3. Bộ Tài chính (2017). Thông tư số 90/2017/TT-BTC ngày 30/8/2017 về thực hiện cơ chế tự chủ tài chính của tổ chức KHCN công lập.
4. Bộ Tài chính và Bộ KHCN (2015). Thông tư liên tịch số 55/2015/TTLT-BTC-BKHCN ngày 22/4/2015 hướng dẫn định mức xây dựng, phân bổ dự toán và duyệt quyết toán kinh phí đối với nhiệm vụ KHCN có sử dụng NSNN.
5. Chính phủ (2014). Nghị định số 08/2014/NĐ-CP ngày 27/1/2014 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật KHCN.
6. Chính phủ (2016). Nghị định 54/2016/NĐ-CP ngày 14/6/2016 quy định cơ chế tự chủ của tổ chức KHCN công lập.
7. Chính phủ (2020). Nghị định số 11/2020/NĐ-CP ngày 20/1/2020 quy định về thủ tục hành chính thuộc lĩnh vực Kho bạc Nhà nước.
8. Chính phủ (2025). Nghị định số 88/2025/NĐ-CP ngày 13/4/2025 quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Nghị quyết số 193/2025/QH15 ngày 19/2/2025 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.
9. Lê Hùng Sơn (2021). Giải pháp hoàn thiện kiểm soát chi kinh phí nghiên cứu KHCN qua Kho bạc Nhà nước. Đề tài NCKH cấp Bộ Tài chính, do PGS., TS. Lê Hùng Sơn làm chủ nhiệm.
10. Quốc hội (2025). Luật Ngân sách nhà nước, số 89/2025/QH15 ngày 26/5/2025.
11. Quốc hội (2025). Luật KHCN và đổi mới sáng tạo, số 93/2025/QH15 ngày 14/6/2025.
Nguồn: kinhtevadubao.vn